Che nghiêng vành nón làng Chuông

Ở miền Bắc có nhiều nơi làm nón song nhiều và đẹp nhất là làng Chuông, thuộc xã Phương Trung, Thanh Oai, Hà Tây nay là Hà Nội.

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong tà áo dài, chiếc nón quai thao và nón Xuân Kiều đã là một nét đẹp Việt Nam không thể phai mờ trong lòng bè bạn quốc tế. Nơi đâu trên cả nước cũng gặp những mẹ, những chị, những em đội trên đầu chiếc nón trắng, dù là nơi đồng ruộng, khi đi chợ, đi học, dạo bước vui phố xá, khi biểu diễn nghệ thụât hay làm việc trên công trường, mỗi cử động mỗi góc nhìn từ chiếc nón đều tăng thêm vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại của người phụ nữ, cho thấy chiếc nón thật thân thương, đáng yêu biết bao.

Ở miền Bắc có nhiều nơi làm nón song nhiều và đẹp nhất là làng Chuông, thuộc xã Phương Trung, Thanh Oai, Hà Tây nay là Hà Nội. Nằm nghiêng nghiêng bên dòng sông Đáy thơ mộng, trong làng có hơn 2.000 hộ dân, từ vài trăm năm nay ngoài sản xuất nông nghiệp, người dân đều làm nghề phụ, trong đó có nghề làm nón. Buổi sáng tinh mơ, khi con gà còn chưa cất tiếng gáy thì ở dưới gốc đa đầu làng đã họp chợ. Người dân từ khắp các xóm cùng đổ ra chợ với những chồng nón trắng trên tay và bày la liệt trên mặt đất các vật liệu để làm nón mà họ đã quy tụ từ nhiều nơi.

Nón làng Chuông có tới 16 vòng cho độ bền chắc mà vẫn đẹp. Để làm được một chiếc nón khá công phu. Đầu tiên là vò lá nón trong cát rồi phơi nắng cho chuyển mầu từ  mầu xanh của lá sang trắng bạc, rồi lót dẻ và dùng lưỡi cày miết cho lá phẳng không ròn không rách. Thứ hai làm vòng nón bằng cật nứa vót nhỏ, khi nối bắt buộc phải tròn đều không chắp không gợn. Sau khi làm khuôn, nghệ nhân xếp lá vào từng vòng nón, tiếp thêm một lớp mo tre và một lớp lá nữa rồi khâu thật khéo léo. Kim đưa như con thoi từng mũi khâu thẳng đều từ vòng trong ra vòng ngoài. Khi chiếc nón thành hình, lại hơ hơi diêm cho màu trắng non nớt của nón trở nên trắng bóng óng ả.

Nón làng Chuông bền chắc mà vẫn đẹp.

Từ xưa, làng Chuông đã làm nhiều loại nón, như nón ba tầm - nón quai thao dành cho phụ nữ và nón dấu, nón chóp cho nam giới. Song kể từ năm 1930 làng chủ yếu sản xuất loại nón Xuân Kiều hay nón Ba Đồn của xứ Huế. Người có công lớn đưa và phát triển loại nón này là nghệ nhân Hai Cát, một người con của làng Chuông học nghề từ Thanh Hóa và Huế rồi về truyền thụ cho dân làng. Giờ đây, làng chỉ còn một số gia đình chuyên làm nón cổ như gia đình ông Lê Văn Tuy làm nón chóp và ông Trần Văn Canh làm nón quai thao. Mặc dù hai loại nón này khó làm song ai nấy đều kiên trì bám nghề vì muốn bảo tồn một sản phẩm truyền thống, lưu giữ một di sản ông cha để lại cho con cháu.

Nhờ tiêu thụ tốt, ở làng Chuông gần như nhà nào cũng làm nón. Chợ làng Chuông mỗi tháng họp sáu phiên vào ngày 4,10, 14, 20, 24 và 30 và chỉ bán nón. Mỗi ngày, có 7.000 chiếc nón làng Chuông được xuất đi các tỉnh thành và sang cả nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Italia… Mỗi năm xuất ra thị trường hơn ba triệu chiếc nón. Giá một chiếc nón chỉ từ 3.000-5.000 đồng nên nhiều người mua được, và dù là ngày nắng hay ngày mưa khách đặt hàng đều vào ra tấp nập.

Để có thể cung ứng cho thị trường, người làng Chuông đã tận lực suốt đêm ngày. Cả gia đình già trẻ lớn bé đều cùng làm. Có những nghệ nhân 80 tuổi, 90 tuổi mà mắt vẫn tinh tường, tay vẫn đan nón thoăn thoắt. Có các cháu nhỏ bảy tám tuổi đã biết giúp cha mẹ làm khuôn và khâu nón. Mọi người cười rôm rả quây quần bên chồng nón. Nhiều nhà nhờ làm nón đã nuôi dạy các con học hết đại học, thậm chí ra nước ngoài công tác và nhờ đó mà giới thiệu rộng rãi nón làng Chuông với bè bạn quốc tế.

Năm 2001 là cái mốc quan trọng đánh dấu việc nón làng Chuông xuất ngoại khi khách sạn Liên Hoa Hà Nội đặt ông Phạm Văn Canh hai chiếc nón quai thao và ông Nguyễn Văn Tuy một chiếc nón chóp trắng, đường kính hai mét mang dự Hội chợ làng thủ công mỹ nghệ truyền thống tại thủ đô Prague của Cộng Hòa Czech và Berlin Đức. Ông Canh bất chấp chỉ còn một chân và di chứng của chiến tranh trong 15 ngày đã treo mình lên trần nhà đánh vật với từng đường kim mũi chỉ. Người thân xót xa song ông vẫn làm vì ông muốn chiếc nón của làng mình được bạn bè quốc tế biết tới.

Sau khi ba chiếc nón hoàn thành, tiếng lành đồn xa, các doanh nghiệp, các hãng phim, khách du lịch trong ngoài nước đã lũ lượt tìm tới làng Chuông. Có ngày gia đình hai nghệ nhân phải tiếp tới hàng trăm vị khách, khi về đều mua đôi chiếc nón cổ làm quà kỷ niệm. Báo chí liên tiếp tới viết bài, cứ thế hình ảnh nón làng Chuông được quảng bá trên toàn thế giới. Và đến hôm nay thì không ai là không biết tới nón làng Chuông. Lại nhớ câu ca dao mà các cụ ta ngày xưa truyền lại sao mà hay mà đẹp mà đúng đến thế: “Muốn ăn cơm trắng cá mè/ Muốn đội nón đẹp  thì về làng Chuông”

Theo Người Hà Nội

Đăng lúc: 29/07/2011 17:01

Bản để in Lưu vào bookmarkKết nối nhà cung cấp đặc sản, nhà sản xuất, nhà phân phối